Tết này-nhớ Tết ở Vũng Rô

HQVN -

Trung tá Hồ Đắc Thạnh, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân cùng con tàu Không số HQ 671-Bảo vật quốc gia đã vượt qua mưa bom, bão đạn để vận chuyển vũ kh,í đạn dược chi viện vào chiến trường Khu V và Tây Nguyên, góp phần giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Hồi đó, chuyến tàu vào bến Vũng Rô (Phú Yên) đúng đêm giao thừa năm Ất Tỵ (1965) đã để lại trong ông bao cảm xúc.

Trong tiết trời se lạnh cuối Đông, chúng tôi đến thăm Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Hồ Đắc Thạnh. Bên ấm chè sen thơm ngát, ông bồi hồi nhớ lại chuyến đi vô cùng gian khó nhưng dâng trào hạnh phúc. Cuối năm 1964, sau khi đã đưa hai chuyến tàu chở vũ khí vào bến Vũng Rô thắng lợi, tôi được Tư lệnh Quân chủng Hải quân gọi lên giao nhiệm vụ: “Đảng ủy và Tư lệnh Quân chủng quyết định, tàu các đồng chí phải khắc phục mọi khó khăn trở ngại, đúng giao thừa có mặt tại Vũng Rô-ông kể.

Rời Sở chỉ huy Quân chủng, lòng tôi dâng lên một cảm xúc đặc biệt, xen giữa niềm vui và nỗi lo. Vui vì được tiếp tục nhiệm vụ đưa tàu chở vũ khí về quê hương, được gặp lại đồng chí, đồng bào trong ngày Tết cổ truyền dân tộc. Còn lo, hôm nay đã là 20 tháng chạp, làm sao chuẩn bị tốt mọi mặt để tàu đến Vũng Rô vào đúng đêm giao thừa?

Tàu HQ 671 tại Bảo tàng Hải quân

Sau khi họp cấp ủy và chi bộ để quán triệt nhiệm vụ, ra nghị quyết lãnh đạo chuyến đi, cuộc họp của tàu được tiến hành khẩn trương, đầy khí thế, quyết tâm. Tôi kết luận cuộc họp và thông qua quyết tâm gửi cấp trên. Thông thường, cuộc họp đến đây là kết thúc nhưng thật bất ngờ, một cánh tay giơ lên xin phát biểu ý kiến. Đó là đồng chí Trần Văn Nhợ, người lính mà anh em trong tàu thường gọi bằng cái tên thân mật “Bố già”. Đồng chí Nhợ nói: “Tàu ta đi nhiều chuyến, đưa hàng vào nhiều bến nhưng được đi vào dịp Tết thì thật là hiếm có. Vì vậy, tôi đề nghị tàu ta chuẩn bị cái gì khi vào bến, ta cùng anh em ở bến ăn Tết”. Tiếng hoan hô đồng tình vang dậy. Vậy là ngoài việc cho tàu nhận vũ khí, theo dõi đài nghe thời tiết, nắm tình hình địch, chuẩn bị hậu cần... một bộ phận anh em được cử đi mua sắm Tết.

Mọi công tác chuẩn bị cho chuyến đi đã hoàn thành sớm hơn dự định một ngày. Sau khi nghe báo cáo, tôi trực tiếp kiểm tra công tác chuẩn bị cụ thể của các ngành. Khi đến khoang hàng hai, ngoài số hàng vũ khí, trang bí kỹ thuật, tôi gặp một hòm gỗ đậy kín, bên ngoài có hàng chữ đậm nét “Quà đón Xuân vui Tết” bên cạnh một cành Đào sum suê hoa lá. Tôi hỏi đồng chí Hồng Lý. Đồng chí Nhạn, Máy trưởng-người được cử đảm nhiệm công việc chuẩn bị Tết vừa cười, vừa nói: “Báo cáo thuyền trưởng, cái thùng do tàu ta xuất phiếu thôi ạ!”. Tất cả cùng cười. Đồng chí mở nắp thùng và đọc to bản liệt kê bao gồm: “30 chiếc bánh chưng, bánh tét, 10 gói kẹo, bánh quy, 5 gói chè, 20 gói thuốc lá, 40 chai bia và một cành đào. Tất cả đều không có nhãn hiệu, giống như con tàu Không số của ta”.

 Chiếc thùng gỗ đựng quà Tết chiếm một diện tích rất nhỏ trong khoang hàng của tàu nhưng nó chứa đựng tình cảm của toàn thể cán bộ, chiến sĩ Tàu 41 (Tàu HQ 671 ngày nay), đa phần anh em quê Phú Yên. Họ đã gửi gắm tình cảm của mình qua từng món quà Tết quê hương trong chuyến đi đầy ý nghĩa này.

Đúng lúc, những trận gió mùa Đông Bắc đem theo mưa phùn rét buốt thì  các đồng chí Tư lệnh Quân chủng, Đoàn trưởng và Chính ủy đoàn đến chia tay Tàu 41 lên đường: “Chúc Tàu 41 thuận buồm xuôi gió. Bộ Tư lệnh chờ đón tin thắng lợi báo về”. Tình cảm hậu phương lớn làm ấm lòng các chiến sĩ trên đường về tiền tuyến lớn.

Tàu 41 hành trình vào mùa thời tiết không thuận lợi. Sau ba lần vượt sóng to gió lớn, lách tránh các tàu tuần tiễu của địch, chiều 30 tháng Chạp, Tàu chuyển hướng vào bờ. Đây là lộ trình căng thẳng nhất chuyến đi. Bữa cơm tất niên được sắp xếp cho anh em ăn trước 12 giờ trưa để kịp làm công tác chuẩn bị chiến đấu. Cũng thịt mỡ, dưa hành nhưng thiếu câu đối đỏ. Không neo, không pháo, có bánh chưng xanh nhưng để dành khi vào bến. Toàn tàu đang ăn cơm bỗng chiến sĩ trực canh từ đài quan sát báo cáo: “Mạn phải 30 độ, cự ly 3 hải lý, phát hiện hai tàu địch di chuyển về phía Nam”. Lệnh chuẩn bị chiến đấu được phát ra, tất cả về vị trí của mình. Lớp ngụy trang trên những khẩu súng được kiểm tra sửa lại để vừa che mắt hai tàu địch vừa có thể nhanh chóng tung ra khi có tình huống chiến đấu. Phải tránh! Tôi cho tàu thay đổi hướng đi song song để tránh tàu địch, tạo khoảng cách xa. Sau 1 giờ theo dõi, địch thấy tàu ta không có dấu hiệu khả nghi nên bỏ đi. Thế là tàu ta chuyển hướng tiến vào Vũng Rô.

Nhấp thêm ngụm trà nóng, ông kể tiếp: 23 giờ 50 phút, trời tối đen như mực, tàu chúng tôi thả trôi giữa Vũng Rô. Bỗng từ phía bờ, hàng loạt súng pháo đủ các cỡ nổ vang đạn chéo bầu trời. Những chiếc đèn dù xanh đỏ từ đồn dốc Ba Ty phụt lên treo lơ lửng một khoảng trời Vũng Rô. Anh em trên tàu chột dạ: Lộ rồi sao? Địch đã phát hiện tàu ta chăng? Nhưng thật may chúng bắn ăn mừng năm mới.

Phút giao thừa năm 1965 đã tới, từ dưới phòng báo vụ, chiếc đài bán dẫn vang lên lời Bác Hồ chúc Tết. Phú Yên ơi! chúng con đã về giữa mùa Xuân tràn đầy sức sống. Chúng tôi đưa tàu vào sát mép núi và ngụy trang kín đáo trước khi trời sáng.

Sau khi đã bố trí tốt các tổ bám chốt các đồn bốt địch và Mũi Điện để kịp thời đối phó, cuộc liên hoan mừng Tết Ất Tỵ, mừng ngày tàu về bến được tiến hành trên nắp khoang và hầm hàng hai dưới vòm lá ngụy trang kín đáo. Thịt mỡ, dưa hành, bánh chưng, bánh tét, kẹo, bia và thuốc lá được bày ra. Cành đào Nhật Tân-Hà Nội bên nhành mai vàng của núi Đá Bia khoe sắc càng tăng thêm hương vị của mùa Xuân.

Trong niềm vui chan chứa tình cảm, tôi thay mặt cán bộ, chiến sĩ chúc Tết các đồng chí lãnh đạo, chỉ huy, chiến sĩ và dân công của bến. Chúng tôi cùng nâng cốc chúc mừng thắng lợi. Tiếng pháo tay thay tiếng pháo Tết nổ vang. Anh Sáu giục cô gái ngồi bên cạnh mặt ửng hồng đứng lên thay mặt đồng bào địa phương chúc Tết anh em thủy thủ tàu. Cô nói: “Đảng, Bác Hồ, đồng bào miền Bắc lo cho miền Nam từng khẩu súng, viên đạn, bát cơm, viên thuốc. Các anh thủy thủ vượt qua sóng to gió lớn, đối mặt với quân thù vận chuyển hàng chi viện cho miền Nam, quê hương Phú Yên quyết xứng đáng với tình nghĩa cao cả đó”.

Tối mồng một, Tàu bốc dỡ hàng. Chiếc cầu tàu làm tạm bằng cây rừng không đủ sức cho số đông người đi lại nên hầu hết anh chị em dân công phải dầm mình dưới nước mới kịp chuyển hàng. Công việc tấp nập, khẩn trương. Phía Đèo Cả, thỉnh thoảng một vài ánh đèn pha le lói của những chiếc xe leo dốc cùng với tiếng súng nổ lạc lõng từ các bốt địch bắn cầm canh trấn an cho giấc ngủ đầu năm của những kẻ xâm lược. Mặc-không khí lao động, chiến đấu ở đây vẫn khẩn trương chạy đua với thời gian.

Hàng bốc dưới tàu lên là vũ khí, thuốc men. Hàng trên bờ xuống là cát. Cát của Vũng Rô được đưa xuống dằn tàu để giữ được ổn định khi tàu ra khơi. Từ trong đêm tối, một đồng chí cán bộ cầm trong tay một gói nhỏ được bọc cân thận bằng chiếc khăn tay tìm gặp tôi. Anh nói: Tôi gửi theo anh nắm đất Vũng Rô, nắm đất đã trải qua bao nhiêu lần giặc cày đi xéo lại nhưng mà vẫn kiên trung bất khuất, nay có súng đạn của các anh đưa vào, mảnh đất này sẽ là niềm tin để cho bà con anh em Vũng Rô (Phú Yên) nói riêng và miền Nam nói chung tiếp thêm sức mạnh dành nhiều thắng lợi giải phóng đất nước… Cầm nắm đất Vũng Rô, nắm đất của quê hương trong tôi có một cảm xúc lạ dâng trào. Sau này, nắm đất sau khi trải qua nhiều hành trình hiện nay ở bảo tàng Quân chủng Hải quân…”

3 giờ sáng mồng hai Tết Ất Tỵ, Tàu rời bến Vũng Rô. Người ra đi và người ở lại tay siết chặt tay. Những hàng nước mắt tuôn trào, những lời chúc “Lên đường thuận buồm xuôi gió”, “Ở lại mạnh khỏe, chiến đấu hăng say, hứa hẹn có ngày gặp lại”. Tôi ấn mạnh tay chuông, con tàu lướt sóng ra khơi. Phía sau là Vũng Rô, là mùa xuân Ẩt Tỵ.

                                                                               Nguyễn Thành Trung

Bài viết, video, hình ảnh đóng góp cho chuyên mục vui lòng gửi về bhqdt@baohaiquanvietnam.vn