Toàn quốc kháng chiến-Bài học về rèn luyện bản lĩnh chính trị cho Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước công nông đầu tiên ở khu vực Đông Nam Á ra đời, đánh dấu bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc. Từ đây, nhân dân lao động của nước Việt Nam mới trở thành người chủ đất nước, có quyền tự quyết vận mệnh dân tộc sau gần một thế kỷ chịu cảnh áp bức, nô dịch của chế độ thực dân, phong kiến.

Song, chính quyền cách mạng non trẻ mới giành được chưa bao lâu và đang phải đối mặt với muôn vàn khó khăn thử thách, thì thực dân Pháp núp bóng quân đồng minh vào giải giáp quân Nhật, đã trở lại xâm lược nước ta một lần nữa. Trong bối cảnh đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ ta đã nhân nhượng, tìm mọi cách đàm phán với Chính phủ Pháp nhằm cứu vãn chiến tranh, duy trì hòa bình để tập trung sức kiến thiết đất nước, chăm lo đời sống nhân dân. Nhưng mọi nỗ lực của chúng ta đều không thành, càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới. Chúng xé bỏ tất cả các hiệp ước hòa bình đã ký với ta (Hiệp định Sơ bộ 6-3-1946 và Tạm ước 14-9-1946). Không những thế, chiều 18-12-1946, chúng còn ngạo mạn gửi tối hậu thư đòi ta phải hạ vũ khí giao quyền bảo vệ Hà Nội cho chúng.

Trước âm mưu và hành động ngang ngược của thực dân Pháp, Thường vụ Trung ương Đảng họp Hội nghị mở rộng do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì, quyết định phát động cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược trên phạm vi toàn quốc. Đúng 20 giờ ngày 19-12-1946, quân và dân Hà Nội đồng loạt nổ súng mở đầu cho toàn quốc kháng chiến bùng nổ. Ngày 20-12-1946, "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến" của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được phát trên làn sóng Đài Tiếng nói Việt Nam. Trong giờ phút Tổ quốc lâm nguy, tình thế hết sức hiểm nghèo như “ngàn cân treo sợi tóc”, từng câu từng chữ trong lời kêu gọi của Bác vang lên, thấm sâu vào tâm khảm mỗi người dân Việt Nam, khơi dậy lòng tự hào, tự tôn, truyền thống yêu nước, ý chí chiến đấu quật cường của dân tộc. Lời hiệu triệu đó đã tạo động lực thúc đẩy sức mạnh của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ Việt Nam trỗi dậy, với mọi thứ vũ khí sẵn có, với một tinh thần quyết chiến, quyết thắng cao độ, “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”, một thái độ dứt khoát và kiên định: "Thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”.

Nhân dân phố Mai Hắc Đế, Hà Nội dựng chướng ngại vật chặn bước tiến của quân Pháp trong ngày đầu toàn quốc kháng chiến, tháng 12-1946. Ảnh tư liệu

"Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến" của Chủ tịch Hồ Chí Minh thực sự là “Hịch cứu nước”, trong đó kết tinh áng thiên cổ hùng văn “Hịch tướng sĩ” của Trần Hưng Đạo, “Lời thề xuất quân” của Quang Trung - Nguyễn Huệ,… khích lệ khí thế kiên quyết chống kẻ thù xâm lược. Hưởng ứng Lời kêu gọi của Người, quân và dân cả nước đã nhất tề đứng lên đánh giặc, cứu nước vì độc lập, tự do của dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân. Chiến thắng vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Pháp, kết thúc bằng Chiến dịch Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” (tháng 5-1954), tạo cơ sở nền tảng cho thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử (tháng 4-1975), hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc suốt 30 năm bền bỉ đấu tranh đã khẳng định ý chí quyết tâm bảo vệ nền độc lập, thống nhất Tổ quốc với chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” của nhân dân ta được tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng. Thắng lợi đó là biểu tượng cao đẹp của ý chí quyết chiến, quyết thắng, khí phách anh hùng, tinh thần chủ động sáng tạo và sức mạnh vô địch “sức mạnh tinh thần, sức mạnh yêu nước” của chiến tranh nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam).
Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc do nhiều yếu tố hợp thành; trong đó Quân đội nhân dân Việt Nam được Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu tổ chức, lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện bản lĩnh chính trị vững vàng, không ngừng lớn mạnh, trở thành đội quân bách chiến, bách thắng là một trong những nhân tố quyết định. Thực tiễn đó đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý về xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam nói chung, về rèn luyện bản lĩnh chính trị cho quân đội nói riêng; đến nay vẫn còn nguyên giá trị.

Thế hệ cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay hầu hết trưởng thành trong thời bình, chủ yếu được rèn luyện, thử thách trong nhà trường và trên thao trường; đồng thời, phải đối mặt với những khó khăn, thách thức của mặt trái kinh tế thị trường, xu hướng toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, đặc biệt là tác động tiêu cực từ thông tin xấu độc, âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” “phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch và nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Do vậy, xây dựng bản lĩnh chính trị kiên định, vững vàng cho cán bộ, chiến sĩ quân đội là một nhiệm vụ hết sức quan trọng, rất cần thiết, rất công phu, nghiêm túc và phải được tiến hành thường xuyên, có hệ thống bằng những giải pháp hợp lý, sát thực tế huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu... Để đạt được mục tiêu, yêu cầu đó, chúng ta cần tiến hành đồng bộ các giải pháp; đặc biệt, phải tiếp tục kế thừa, phát huy những bài học kinh nghiệm về rèn luyện bản lĩnh chính trị, ý chí chiến đấu của quân và dân ta trong những ngày toàn quốc kháng chiến, cũng như trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng quân đội, bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

Một là, thường xuyên coi trọng giáo dục truyền thống yêu nước bất khuất, kiên cường chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam cho cán bộ, chiến sĩ quân đội.

Tinh thần yêu nước được hình thành, thử thách và khẳng định trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước, giữ nước của ông cha ta đã phát triển thành chủ nghĩa yêu nước trong thời đại Hồ Chí Minh, một trong những giá trị truyền thống cao quý nhất, bền vững nhất của dân tộc ta. Yêu nước đã thực sự trở thành một thứ vũ khí tinh thần ngấm sâu vào tâm trí tư tưởng, tình cảm của mỗi người dân Việt Nam qua các thời đại, làm nên một sức mạnh kỳ diệu, giúp cho dân tộc ta chiến thắng hết kẻ thù này đến kẻ thù khác cho dù chúng có hung bạo và tiềm lực quân sự mạnh đến đâu. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: "Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”(1).

Quân đội nhân dân Việt Nam ngày càng trưởng thành, lớn mạnh. Ảnh minh họa/nguồn internet

Chính sức mạnh của lòng yêu nước là cơ sở tạo nên bản lĩnh, khí phách của dân tộc ta; tạo nên bản lĩnh, ý chí chiến đấu và niềm tin vào thắng lợi của quân và dân ta. Điểm đặc sắc ở chỗ sức mạnh tiềm tàng đó được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh khơi dậy đúng thời điểm thông qua "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến" và Chỉ thị "Toàn dân kháng chiến”; đồng thời, được phát triển lên chất mới trong suốt cuộc kháng chiến trường kỳ. Nhờ vậy, Đảng ta đã xây dựng được khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy cao độ lòng yêu nước, chí căm thù giặc, tinh thần chiến đấu kiên cường, bất khuất của toàn dân, toàn quân, quyết chiến, quyết thắng kẻ thù xâm lược. Bằng sức mạnh tổng hợp đó, quân và dân ta đã vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, càng đánh càng mạnh, càng thắng lớn và cuối cùng giành thắng lợi quyết định. Bài học nêu trên còn lưu truyền mãi mãi với thời gian. Vận dụng bài học trong sự nghiệp xây dựng quân đội, bảo vệ Tổ quốc ngày nay, chúng ta cần tiếp tục đẩy mạnh công tác giáo dục những giá trị truyền thống tốt đẹp đó, nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, trách nhiệm và rèn luyện, nâng cao bản lĩnh chính trị vững vàng trước mọi khó khăn thách thức của cán bộ, chiến sĩ và nhân dân. Trong quá trình thực hiện, cần tiếp tục đổi mới chương trình, nội dung và mở rộng đối tượng giáo dục, bồi dưỡng; trong đó, chú trọng giáo dục bồi đắp tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, niềm tự hào, tự tôn dân tộc cho toàn dân và toàn quân, nhất là thế hệ trẻ, giúp họ nêu cao cảnh giác, không để các thế lực thù địch lợi dụng lòng yêu nước chống phá đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước. Qua đó, không ngừng tăng cường tiềm lực mọi mặt của đất nước và sức mạnh chiến đấu của Quân đội nhân dân, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Hai là, tăng cường giáo dục Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, tạo cơ sở cho việc rèn luyện, nâng cao bản lĩnh chính trị cho cán bộ, chiến sĩ.

Bản lĩnh chính trị của bộ đội không tự nhiên mà có. Đó là kết quả của quá trình tổ chức, lãnh đạo, giáo dục, rèn luyện của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với quân đội suốt hơn bảy mươi năm qua. Lý luận và thực tiễn cách mạng chỉ ra rằng: Có  giác ngộ mới có hành động cách mạng. Quân đội nhân dân có nhận thức sâu sắc về lý tưởng cách mạng thì mới định hướng đúng và xác định rõ mục tiêu chiến đấu cho ai, vì mục đích gì? Từ đó sẵn sàng hy sinh vì mục tiêu, lý tưởng cao cả. Quân đội nhân dân Việt Nam là quân đội cách mạng, mang bản chất giai cấp công nhân, có tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc; là quân đội của dân, do dân và vì dân. Có được bản chất cách mạng ấy là do Quân đội ta luôn được giáo dục bởi một hệ thống lý luận tiên phong là Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đó là sợi chỉ đỏ xuyên suốt, quyết định tính chất cách mạng; là cơ sở khoa học để giác ngộ mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, bản lĩnh chính trị, lòng trung thành, sự nhạy bén về chính trị; là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hoạt động xây dựng, trưởng thành, chiến đấu và chiến thắng của Quân đội ta.

Trong suốt quá trình lãnh đạo quân đội, Đảng ta thường xuyên tuyên truyền, giáo dục làm cho chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh thấm sâu, bám rễ trong tư tưởng, tình cảm của mọi cán bộ, chiến sĩ, tạo động lực chính trị tinh thần, thôi thúc bộ đội chiến đấu, hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội và hạnh phúc của nhân dân, suốt đời tận trung với nước, với Đảng, tận hiếu với dân. Đó là “vũ khí luận” sắc bén, là cơ sở nền tảng để cán bộ, chiến sĩ có bản lĩnh chính trị vững vàng, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao trong mọi tình huống. Tinh thần dám đánh, quyết đánh, quyết thắng, “quyết tử để Tổ quốc quyết sinh” trong những ngày toàn quốc kháng chiến và suốt cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, chống đế quốc Mỹ xâm lược là biểu hiện sinh động về bản lĩnh chính trị của quân và dân ta. Thực tiễn khẳng định: Nhờ được Đảng ta thường xuyên quan tâm, chăm lo giáo dục về mục tiêu, lý tưởng mà bản lĩnh chính trị, bản lĩnh chiến đấu của Quân đội ta không ngừng được nâng cao, luôn vững vàng trước mọi khó khăn, thử thách.

Trong tình hình phức tạp hiện nay, nhất là sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch và những diễn biến khó lường ở Biển Đông, chúng ta càng phải chú trọng giáo dục, rèn luyện nâng cao bản lĩnh chính trị gắn với định hướng tư tưởng cho cán bộ, chiến sĩ trong toàn quân. Theo đó, toàn quân cần tiếp tục thực hiện Chỉ thị 124-CT/QUTƯ của Thường vụ Quân ủy Trung ương và Đề án “Đổi mới công tác giáo dục chính trị tại đơn vị trong giai đoạn mới”. Phải đẩy mạnh đổi mới cả về nội dung, hình thức và biện pháp tiến hành; khắc phục những hạn chế, cách làm theo kiểu đường mòn lối cũ, hình thức, đơn điệu, kém chất lượng và hiệu quả. Quá trình đổi mới phải chấp hành nghiêm sự chỉ đạo của Tổng cục Chính trị, sự hướng dẫn của cơ quan chức năng; cấp ủy, chỉ huy đơn vị, cơ quan chính trị các cấp phải đề cao trách nhiệm, năng động, sáng tạo trong tổ chức thực hiện. Việc đổi mới phải bảo đảm được tính cơ bản, hệ thống, cập nhật những thông tin mới, nhằm trang bị kiến thức toàn diện, góp phần xây dựng những phẩm chất, nhân cách người quân nhân cách mạng, phục vụ tốt nhiệm vụ rèn luyện, nâng cao bản lĩnh chính trị cho bộ đội.

Ba là, tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động công tác Đảng, công tác chính trị trong quân đội.

Công tác Đảng, công tác chính trị trong Quân đội nhân dân Việt Nam là bộ phận rất quan trọng trong hoạt động lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, nhằm xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội là nguyên tắc căn bản trong xây dựng quân đội kiểu mới theo nguyên lý Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; quyết định bản chất giai cấp, mục tiêu lý tưởng chiến đấu và là nhân tố quyết định hàng đầu sự trưởng thành, chiến thắng của Quân đội ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Quân đội ta có sức mạnh vô địch, vì nó là một quân đội nhân dân do Đảng ta xây dựng, Đảng ta lãnh đạo và giáo dục”(2). Do vậy, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội thực chất là tăng cường xây dựng quân đội về chính trị. Ngược lại, tăng cường xây dựng quân đội về chính trị cũng chính là quá trình tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, bảo đảm cho quân đội tuyệt đối trung thành với Đảng, có chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu cao, đủ sức hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ trong mọi điều kiện.

Hiện nay, để giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội, đòi hỏi toàn quân cần tiếp tục thực hiện tốt Nghị quyết 51-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa IX) “Về tiếp tục hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng, thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn với thực hiện chế độ chính ủy, chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam”, Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, XII) về xây dựng Đảng gắn với Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XII) về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ”... Trong đó, tập trung nâng cao năng lực lãnh đạo toàn diện và sức chiến đấu của các cấp ủy, tổ chức đảng; gắn xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh với xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện, xây dựng cấp ủy với xây dựng cán bộ chủ trì, xây dựng đội ngũ đảng viên với xây dựng đội ngũ cán bộ, rèn luyện tính Đảng và thường xuyên giám sát, kiểm tra việc duy trì kỷ luật Đảng, kỷ luật quân đội, chấp hành pháp luật Nhà nước. Mặt khác, cần tích cực nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn để không ngừng hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, bảo đảm cho Đảng nắm chắc quân đội và quân đội luôn tuyệt đối trung thành với Đảng.

Hoạt động công tác Đảng, công tác chính trị phải được tiến hành thường xuyên, gắn chặt với các mặt công tác khác, bám sát hoạt động thực tiễn của bộ đội, nhất là trong huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, phòng chống khắc phục hậu quả thiên tai, cứu hộ, cứu nạn,... Cùng với đó, cần phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, các lực lượng, các phương tiện trong tiến hành công tác Đảng, công tác chính trị nhằm giáo dục, rèn luyện nâng cao bản lĩnh chính trị, tinh thần và ý chí quyết tâm khắc phục khó khăn, hoàn thành nhiệm vụ của bộ đội.

Bốn là, thường xuyên chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ vững mạnh ngang tầm yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.

Đánh giá về vai trò của cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”. Thực tiễn cũng cho thấy, chất lượng đội ngũ cán bộ là nhân tố có ý nghĩa quyết định đến sức mạnh chiến đấu, hoàn thành nhiệm vụ của mỗi đơn vị và toàn quân. Người chỉ rõ: “Từ việc lớn đến việc nhỏ, cán bộ đều phải làm kiểu mẫu. Giữ gìn kỷ luật, học tập kỹ thuật, luyện quân lập công, xung phong hãm trận, thân ái đoàn kết, nói tóm lại, mỗi việc trong bộ đội, cán bộ đều phải làm gương. Như thế thì Quân đội ta sẽ là một quân đội vô địch, và kháng chiến nhất định thành công”(3). Người yêu cầu: “Phải ra sức bồi dưỡng cán bộ, phải rèn luyện tư tưởng, nâng cao trình độ giác ngộ chính trị, cũng như trình độ chiến thuật và kỹ thuật của cán bộ. Đó là khâu chính trong các thứ công tác”(4). Thấu triệt quan điểm của Đảng và tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng thường xuyên quan tâm công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ có phẩm chất, năng lực ngang tầm yêu cầu nhiệm vụ. Chú trọng xây dựng hệ thống nhà trường “chính quy, mẫu mực”; lựa chọn, gửi cán bộ đi học ở các cơ sở đào tạo trong và ngoài nước nhằm đáp ứng yêu cầu đào tạo đội ngũ cán bộ cho quân đội. Nhờ đó, quân đội đã xây dựng được đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành, có số lượng, chất lượng và cơ cấu hợp lý, vừa “hồng”, vừa “chuyên”, bảo đảm sự phát triển, kế thừa vững chắc giữa các thế hệ, thực sự là lực lượng nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ quân sự-quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc.

Trong quá trình xây dựng đội ngũ cán bộ quân đội phải hết sức chú trọng xây dựng, bồi dưỡng nâng cao trình độ, năng lực cho chính ủy, chính trị viên, cán bộ chính trị các cấp - lực lượng nòng cốt chuyên trách về công tác Đảng, công tác chính trị, xây dựng quân đội về chính trị. Bởi, cán bộ chính trị là người giữ vững định hướng chính trị trong mọi hoạt động của bộ đội và đơn vị theo đúng đường lối, quan điểm của Đảng, người thắp sáng ngọn lửa nhiệt huyết cách mạng cho mọi cán bộ, chiến sĩ. Hiện thực hơn 70 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Quân đội ta khẳng định: Đội ngũ cán bộ chính trị vững mạnh là nhân tố có ý nghĩa quyết định việc nâng cao hiệu quả, hiệu lực công tác Đảng, công tác chính trị; đồng thời, bảo đảm cho quân đội luôn có bản lĩnh chính trị vững vàng trước mọi khó khăn, thử thách.

Năm là, chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, nhất là thủ đoạn “phi chính trị hóa” quân đội, giữ vững trận địa tư tưởng của Đảng trong Quân đội.

Mục tiêu xuyên suốt, không thay đổi của các thế lực thù địch là xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Trước hết, chúng tập trung xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, đối với lực lượng vũ trang nhân dân, nhất là Quân đội nhân dân và Công an nhân dân, hòng làm cho quân đội mất phương hướng, mục tiêu chiến đấu, xa rời sự lãnh đạo của Đảng. Vì vậy, quân đội phải nêu cao cảnh giác, phối hợp chặt chẽ với các lực lượng và toàn dân chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ ta, đặc biệt là thủ đoạn “phi chính trị hóa” Quân đội ta của các thế lực thù địch. Phải chú trọng công tác giáo dục chính trị, định hướng tư tưởng cho bộ đội và nhân dân nhận rõ âm mưu, thủ đoạn thâm hiểm, xảo quyệt của địch; từ đó, có biện pháp phòng chống hiệu quả, bảo đảm giữ vững nền tảng tư tưởng của Đảng trong quân đội. Đồng thời, thông qua đấu tranh để rèn luyện bản lĩnh chính trị cho cán bộ, chiến sĩ luôn vững vàng trong các tình huống, không dao động, lúng túng trước những vấn đề nhạy cảm, thông tin xấu độc, trái chiều. Đó là giải pháp hiệu quả để tạo “hệ miễn dịch”, giúp cán bộ, chiến sĩ vững vàng trước những thông tin sai trái, bịa đặt, xuyên tạc,...

Các cơ quan chức năng: Tuyên huấn, Tổ chức, Bảo vệ, Cán bộ, Dân vận, Chính sách,... cần phối hợp chặt chẽ trong việc cung cấp thông tin, tổ chức lực lượng và phương tiện đấu tranh chống quan điểm sai trái, thù địch có hiệu quả trên lĩnh vực tư tưởng-văn hóa. Đặc biệt, phải coi trọng đấu tranh làm thất bại thủ đoạn “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “phi chính trị hóa” Quân đội ta của các thế lực thù địch.

Thực tiễn hơn 70 năm xây dựng, chiến đấu, chiến thắng và trưởng thành của Quân đội ta khẳng định: Bản lĩnh chính trị của cán bộ, chiến sĩ quân đội được rèn luyện, thử thách và phát triển ổn định, bền vững, đạt đến trình độ giác ngộ sâu sắc về mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, về quyền lợi, trách nhiệm và nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc; được thể hiện sinh động nhất, sâu sắc nhất ở 10 lời thề danh dự của quân nhân và 12 điều kỷ luật của quân đội; là sự kết tinh phẩm giá, nhân cách Bộ đội Cụ Hồ trong thời đại Hồ Chí Minh. Hiện nay, cần tiếp tục phát huy khí phách quật khởi, truyền thống anh dũng của dân tộc và những kinh nghiệm quý về xây dựng, rèn luyện bản lĩnh chính trị cho quân đội trong những ngày toàn quốc kháng chiến cũng như trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc vào công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đó là sự trân trọng lịch sử, sự tôn vinh các anh hùng, liệt sĩ và cũng là trách nhiệm chính trị của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Trung tướng NGUYỄN TRỌNG NGHĨA - Ủy viên Trung ương Đảng, Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị

-------------

(1) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 7, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 38.

(2) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 14, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 435.

(3) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị Quốc gia, H. 2011, tr. 486.

(4) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị Quốc gia, H. 2011, tr. 29.

Theo QĐND điện tử

Bài viết, video, hình ảnh đóng góp cho chuyên mục vui lòng gửi về bhqdt@baohaiquanvietnam.vn