Tàu sân bay tương lai: So sánh lớp Gerald R Ford của Mỹ và lớp 001A Trung Quốc

HQ Online -

Mỹ và Trung Quốc đã nghiên cứu các tàu sân bay tương lai mới để tăng cường lực lượng Hải quân của mình. Mỹ có hơn 70 năm kinh nghiệm về việc phát triển tàu sân bay trong khi Trung Quốc mới có kinh nghiệm làm việc trên các tàu sân bay trong 6 năm. Khi hoạt động hết công suất, các hàng không mẫu hạm có thể phóng và thu hồi tới 240 máy bay mỗi ngày.

Tàu sân bay lớp Gerald R Ford của Mỹ (lớp Ford), do Công ty Newport News Ship đóng, bắt đầu từ năm 2005. Tàu đầu tiên - USS Gerald R Ford đã được đưa vào hoạt động tháng 7- 2017 và dự kiến ​​sẽ được triển khai vào năm 2022. Bốn tàu nữa hiện đang trong các giai đoạn hoàn thành khác nhau, thời gian đưa vào hoạt động dự kiến từ năm 2024 đến 2034.

 

Tàu sân bay lớp Ford của Mỹ

Trong khi đó, Hải quân Quân đội Giải phóng nhân dân (PLAN) của Trung Quốc đã và đang chế tạo một lớp tàu sân bay mới, được chế tạo trong nước, do Công ty đóng tàu công nghiệp Đại Liên chế tạo. Sau khi hoàn thành thử nghiệm trên biển lần thứ 5 vào tháng 2 và tháng 3-2019, lớp Type 001A đầu tiên được dự kiến ​​sẽ đi vào hoạt động vào cuối năm nay.

Tàu sân bay lớp Type 001A của Trung Quốc

Khả năng và kích thước máy bay

Tàu USS Gerald R Ford có thể mang theo hơn 75 máy bay trong khi các tàu sân bay tương lai - USS Enterprise và USS John F Kennedy - có thể mang theo tới 90 máy bay chiến đấu. Như vậy, các tàu lớp Ford có khối lượng khổng lồ, nặng 100.000 tấn và có chiều dài 337m và sàn bay là 78m.

Tàu sân bay tương lai được phát triển nội địa đầu tiên của Trung Quốc lớp Type 001A, có khả năng chứa tổng cộng 38-40 máy bay, bằng một nửa công suất của lớp US Ford Ford. Điều thú vị là Type 001A nhỏ hơn một chút ở mức 315m với sàn bay là 71m. Nó có lợi thế là chỉ nặng 70.000 tấn khi đầy tải.

Tốc độ và sức mạnh

Tốc độ là một thước đo quan trọng đối với các hàng không mẫu hạm, vì chúng thường cần được triển khai nhanh chóng ở bất cứ đâu trên thế giới và phải đủ nhanh để trốn tránh sự phát hiện và trở thành mục tiêu của kẻ thù.

Trong khi lớp Ford có thể di chuyển với tốc độ 30 hải lý (55,6km/h) thì tàu sân bay lớp Type 001A nhanh hơn một chút ở mức 31 hải lý (57,4km/h), nhanh hơn dưới 2km/h. Tuy nhiên, khi tính đến thực tế là Type 001A có trọng lượng ít hơn 30.000 tấn, sự cải thiện nhẹ về tốc độ không quá ấn tượng.

Tàu sân bay lớp Ford được cấp nguồn bởi hai lò phản ứng hạt nhân A1B, có thể tạo ra tổng cộng 700MW điện, tương đương với mức tăng 25% so với tàu lớp Nimitz. Các tàu sân bay lớp Nimitz được thiết kế sử dụng lò phản ứng A4W, được coi là không đủ để cung cấp năng lượng cho các hệ thống hiện đại được thiết kế cho lớp Ford.

Mặt khác, tàu lớp Type 001A sử dụng tua bin hơi nước thông thường với máy phát điện diesel. Chúng được biết là tiết kiệm chi phí hơn, do giá dầu diesel thấp, nhưng di chuyển với tốc độ thường thấp hơn so với các tàu chạy bằng năng lượng hạt nhân.

Vũ khí

Hàng không mẫu hạm cần khả năng phòng thủ để bảo vệ nhiều máy bay và hàng ngàn thủy thủ trên tàu. Các tàu sân bay thuộc lớp Ford của Mỹ được trang bị hai bệ phóng tên lửa RIM-162 Evolve SeaSparrow và RIM-166 tên lửa hải đối không RAM. Các tàu sân bay tương lai thuộc lớp Ford có thể được nâng cấp bằng laser và hệ thống áo giáp tiêu tán năng lượng để bảo vệ chống lại tên lửa dẫn đường GPS tốc độ cao.

Phòng thủ chống lại các tên lửa điều khiển bằng GPS tốc độ cao, cần có vũ khí phòng thủ nhanh hơn, như súng laser và hệ thống áo giáp tiêu tán năng lượng. Do đó, CVN 21 sẽ có nguồn dự trữ năng lượng mà lớp Nimitz thiếu để chạy laser và áo giáp năng động.

CVN 21 [tàu sân bay lớp Ford] sẽ được thiết kế để lắp đặt các hệ thống phòng thủ này. Do đó, CVN 21 sẽ có nguồn dự trữ năng lượng mà lớp Nimitz thiếu để chạy laser và áo giáp.

Hơn nữa, lớp Ford đi kèm với ba hệ thống vũ khí cận chiến Phalanx (CIWS), mỗi hệ thống được trang bị bốn súng máy M2 50ly.

Lớp Type 001A sử dụng ba hệ thống vũ khí cận chiến Type 1130, cùng loại với các hệ thống được sử dụng trên tàu sân bay Liêu Ninh trước đây. theo Navy Recognition, một hệ thống 1130 gồm 11 nòng, sở hữu tốc độ bắn 11.000 viên mỗi phút, có thể là đánh chặn tên lửa chống hạm với tốc độ lên tới Mach 4 với tỷ lệ thành công không dưới 96%. Tàu sân bay tương lai của Trung Quốc cũng có ba hệ thống tên lửa đất đối không HHQ-10 với 18 ống phóng/1 hệ thống.

Giá cả

Chi phí của các tàu thường khác nhau, trong khi chương trình đóng tàu lớp Type 001A của Trung Quốc ước tính trị giá 9 tỷ đô la cho hai tàu. Ngược lại, toàn bộ chương trình đóng tàu lớp Ford của Mỹ ước tính trị giá 37,3 tỷ đô la. Trong số này, con tàu đầu tiên thuộc lớp này - USS Gerald R Ford - được Quốc hội Mỹ ước tính trị giá 12,8 tỷ đô la cùng với 4,7 tỷ đô la chi phí nghiên cứu và phát triển. Con tàu thứ hai, USS John F Kennedy, sẽ rẻ hơn một chút, ở mức 11,3 tỷ đô la.

Rõ ràng về mặt chi phí, các tàu lớp Type 001A của Trung Quốc rẻ hơn nhiều, chỉ bằng một phần ba giá tàu lớp Ford của Mỹ.

Có vẻ như các tàu sân bay lớp Ford của Mỹ sẽ vượt trội so với các tàu lớp Type 001A của Trung Quốc trong tất cả các lĩnh vực, ngoại trừ tàu Trung Quốc nhanh hơn một chút. Tuy nhiên, Chính phủ Mỹ dường như đang trả phí cao hơn cho các hàng không mẫu hạm tương lai của mình, điều này sẽ có tác động lớn hơn đến ngân sách quốc phòng của nước này.

Chu Ngọc Huy (TH)

Bài viết, video, hình ảnh đóng góp cho chuyên mục vui lòng gửi về bhqdt@baohaiquanvietnam.vn