Exocet SM-39: Tên lửa đối hạm phóng ngầm

HQVN -

SM39 là phiên bản phóng ngầm của dòng tên lửa Exocet khá nổi tiếng của Pháp. Exocet SM-39 bắt đầu được nghiên cứu, phát triển từ năm 1979, đến năm 1984 được đưa vào trang bị cho các tàu ngầm của Pháp và sau đó được xuất khẩu ra nước ngoài (khoảng 17 nước) cùng các tàu ngầm của Pháp.

Tên lửa phóng ngầm có hai dạng: tên lửa đạn đạo và tên lửa hành trình. SM-39 thuộc loại thứ hai-tên lửa hành trình. Việc phóng tên lửa hành trình từ tàu ngầm yêu cầu nhiều giải pháp kỹ thuật, phức tạp hơn nhiều lần so với phóng từ tàu mặt nước và máy bay. Giải pháp kỹ thuật áp dụng cho tên lửa Exocet SM-39 được thể hiện thông qua sơ đồ cấu tạo của tên lửa SM-39 khi nằm trong vỏ kén.

Sơ đồ cấu tạo tên lửa SM39 trong vỏ kén

Tên lửa Exocet SM-39 cũng như các tên lửa khác của dòng này, nhìn chung là không quá lớn, chỉ có đường kính thân 35cm, chiều dài là 4,69m, trọng lượng 655kg. Về cấu tạo, SM-39 thiết kế theo sơ đồ khí động học thông thường, cánh nâng ở giữa thân, cánh lái phía sau và đều có thể gấp lại khi nằm trong ống phóng (đối với SM-39 là vỏ kén). Tên lửa SM-39 có động cơ phóng và động cơ hành trình đều là loại nhiên liệu rắn. Đầu tự dẫn vô tuyến chủ động, hệ tự lái quán tính.

Vỏ kén sử dụng trong việc phóng tên lửa có hình trụ đường kính 533mm. Nó không chỉ là cái vỏ (cái kén) không mà bản thân nó còn là một hệ thống phức tạp bao gồm: Phía trước có nắp chụp che để bảo vệ tên lửa trong môi trường nước biển, phía sau chụp che có một liều phóng giúp phá chụp che để tên lửa bay ra; liều phóng chính gắn trên vỏ kén cùng các thiết bị làm đồng tâm và kết nối tên lửa với vỏ kén; phía sau vỏ kén có động cơ phóng riêng. Điểm khá hay của động cơ này là hoạt động được cả trên không và dưới nước. Ngoài ra, vỏ kén còn một số cảm biến khác nhau. Điểm khác cần lưu ý của tên lửa khi nằm trong vỏ kén là quả đạn này có độ nổi âm, tức là khi phóng ra khỏi ống phóng ngư lôi nó sẽ chìm xuống.

Hoạt động phóng của tên lửa Exocet SM-39 như sau: Tàu ngầm đang lặn sẽ truyền thông số bắn lên tên lửa, sau đó tiến hành phóng vỏ kén (như phóng ngư lôi). Khi ra khỏi ống phóng, vỏ kén sẽ chìm xuống trong vòng 1-2 giây, tiếp theo động cơ phóng của vỏ kén được phát động và làm việc trong vòng 10-20 giây tăng tốc vỏ kén lên 20m/giây và chuyển động trong nước 150-200m; vỏ kén cũng có khả năng rẽ ngang đến 900 so với hướng phóng ra nhờ có cấu tạo đặc biệt tại loa phụt của động cơ phóng.

Khi vỏ kén lên đến mặt nước, nó sẽ cảm nhận và kích hoạt liều phóng phá chụp che phía trước đồng thời bay lên độ cao khoảng 20-30m, khi đó liều phóng chính trên vỏ kén sẽ kích hoạt đẩy tên lửa bay ra khỏi vỏ kén. Tiếp theo, động cơ phóng của tên lửa kích hoạt đẩy tên lửa bay lên ở một góc khoảng 120 so với mặt nước, sau đó động cơ hành trình được phát động đưa tên lửa bay đến khu vực mục tiêu. Các hoạt động tiếp theo sẽ diễn ra như ở các tên lửa khác thuộc dòng Exocet. Độ sâu phóng của vỏ kén mang tên lửa hạn chế ở mức khoảng 50m; tốc độ tàu ngầm khoảng 10 hải lý/giờ; phóng được ở sóng cấp 6 và thời gian chuẩn bị khoảng 2 phút.

Như vậy, nhờ sử dụng vỏ kén mang mà tên lửa Exocet SM-39 có khả năng phóng từ ống phóng ngư lôi 533mm trên tàu ngầm. Bản thân vỏ kén cũng là một thiết bị bay và lặn khá phức tạp. Giải pháp phóng ngầm này rất xứng đáng để nghiên cứu áp dụng.

Minh Ngọc

 

 

Bài viết, video, hình ảnh đóng góp cho chuyên mục vui lòng gửi về bhqdt@baohaiquanvietnam.vn