Đảng bộ Viện Kỹ thuật Hải quân: Nâng cao năng lực lãnh đạo đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ nghiên cứu khoa học trong tình hình mới

* Đại tá Nguyễn Đăng Hiền, Chính ủy Viện Kỹ thuật

HQVN -

Ngày 8/5/1978, Viện Kỹ thuật Hải quân (VKT) ra đời là yêu cầu khách quan của quá trình xây dựng, phát triển Hải quân Việt Nam trong sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển đảo Tổ quốc. Viện vừa là cơ quan tham mưu cho Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Hải quân về công tác khoa học công nghệ (KHCN) vừa là trung tâm nghiên cứu, phát triển, ứng dụng KHCN của Quân chủng và Quân đội.

Những năm đầu thành lập, VKT đã phối hợp với Viện Cơ khí, Bộ Giao thông vận tải, các nhà máy, xí nghiệp trong và ngoài Quân chủng nghiên cứu, thiết kế đóng mới thành công 2 tàu chiến đấu đầu tiên ở nước ta mang tên TP-01 và TP-01M. Cùng với đó, VKT tích cực phục vụ công tác bảo đảm kỹ thuật cho Quân chủng tham gia chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam 1979 và làm nhiệm vụ quốc tế ở Cam-pu-chia.

Những năm 1980, VKT từng bước phát triển về quy mô tổ chức, cơ sở vật chất, trang thiết bị, chức năng, nhiệm vụ. Đội ngũ cán bộ, nhân viên được tăng cường về số lượng, nâng cao chất lượng, trình độ chuyên môn, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Đặc biệt, công tác nghiên cứu khoa học có sự thay đổi về chất, từ nghiên cứu thiết kế, sang nghiên cứu thiết kế, đóng mới, sửa chữa, cải tiến, cải hoán, sản xuất VKTBKT, tàu thuyền và đến nay chuyển sang nghiên cứu thiết kế, tích hợp, khai thác, làm chủ VKTBKT, tàu thuyền hiện đại, công nghệ cao.

Đại tá Nguyễn Đăng Hiền, Bí thư Đảng ủy, Chính ủy Viện Kỹ thuật chủ trì họp Đảng ủy. Ảnh: MT

Viện đã triển khai hàng trăm công trình, dự án lớn, đề tài, nhiệm vụ nghiên cứu KHCN, trong đó có nhiều đề tài cấp Nhà nước và Bộ Quốc phòng. Nhiều đề tài, nhiệm vụ hoàn thành xuất sắc cùng hàng chục loại tàu thuyền được nghiên cứu thiết kế, đóng mới đã góp phần quan trọng xây dựng Quân chủng chính quy, hiện đại, làm nòng cốt bảo vệ chủ quyền biển, đảo Tổ quốc.

Trải qua 45 năm xây dựng và phát triển, VKT đã trở thành một trung tâm nghiên cứu, ứng dụng khoa học kỹ thuật hiện đại, công nghệ cao của Quân chủng và Quân đội. Nhiều tập thể, cá nhân đã vinh dự đón nhận những phần thưởng cao quý của Đảng, Nhà nước, Quân đội và Quân chủng, góp phần xây đắp nên truyền thống vẻ vang: “Đoàn kết, sáng tạo, chủ động, khắc phục khó khăn, làm chủ khoa học kỹ thuật”. 

Thời gian tới, trước yêu cầu nhiệm vụ nghiên cứu, phát triển KHCN phục vụ bảo vệ chủ quyền biển đảo và xây dựng Quân chủng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, Đảng bộ VKT tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, trong đó tập trung vào những nội dung, giải pháp chủ yếu sau:

Một là, quán triệt sâu sắc nghị quyết đại hội đảng các cấp; xây dựng Đảng bộ VKT vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức và cán bộ; nâng cao năng lực lãnh đạo toàn diện, nhất là năng lực quán triệt, cụ thể hóa và tổ chức thực hiện nghị quyết. Xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có bản lĩnh chính trị vững vàng, năng lực trí tuệ, tổ chức thực tiễn, thực sự tiền phong, gương mẫu. Tăng cường giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng; đấu tranh phòng chống âm mưu “diễn biến hòa bình”, “phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch. Quán triệt, thực hiện tốt Kết luận 21 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa XIII) về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị, kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và Nghị quyết 847 của Quân ủy Trung ương về phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân.

Thủ trưởng Viện Kỹ thuật Hải quân tặng quà gia đình đồng chí Nguyễn Văn Hải nhân dịp khánh thành nhà đồng đội. Ảnh: MT

Hai là, tiếp tục quán triệt, thực hiện có hiệu quả Nghị quyết 21 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khoá XIII) về tăng cường củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đảng viên trong giai đoạn mới, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ, vững chắc về năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Coi trọng đổi mới, nâng cao chất lượng quản lý, rèn luyện, phát triển đảng viên; gắn xây dựng tổ chức đảng với xây dựng cơ quan, đơn vị VMTD mẫu mực, tiêu biểu, xây dựng đội ngũ cấp ủy với xây dựng cán bộ chủ trì, xây dựng đội ngũ đảng viên với xây dựng đội ngũ cán bộ. Duy trì nghiêm chế độ, nguyên tắc sinh hoạt, quy chế, quy định; có giải pháp khắc phục khuyết điểm; chống mọi biểu hiện cá nhân chủ nghĩa, độc đoán, dân chủ hình thức...

Ba là, trên cơ sở quán triệt các quan điểm, nguyên tắc, quy chế, quy định, quy trình công tác cán bộ, tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nghiên cứu viên có đủ phẩm chất, năng lực, số lượng và cơ cấu hợp lý; bản lĩnh chính trị vững vàng, trình độ chuyên môn sâu, tư duy đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đương đầu với khó khăn thách thức. Bố trí, sắp xếp cán bộ phù hợp với phẩm chất, năng lực, yêu cầu nhiệm vụ; thực hiện luân chuyển cán bộ, giữ gìn cán bộ có kinh nghiệm, đào tạo cán bộ trẻ, tạo sự chuyển giao thế hệ liên tục, vững chắc. Cán bộ chỉ huy, quản lý phải có trí tuệ, tầm nhìn, khả năng bao quát, khát vọng và quyết tâm cao. Nghiên cứu viên phải giỏi chuyên môn, ngoại ngữ; tư duy độc lập, sáng tạo; tác phong nghiên cứu chuyên nghiệp, hiệu quả. Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng với cử cán bộ đi thực tế đơn vị; quy hoạch đội ngũ chuyên gia đầu ngành, hình thành các nhóm nghiên cứu trình độ cao đủ sức giải quyết các nhiệm vụ khó khăn, phức tạp. Có cơ chế trọng dụng, đãi ngộ nhân tài đi đôi với duy trì kỷ luật, liêm chính và đạo đức trong nghiên cứu KHCN.

Bốn là, đổi mới phong cách, phương pháp, tác phong công tác của các cấp ủy, tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ trì. Nghị quyết lãnh đạo phải bám sát nghị quyết, chỉ thị của cấp trên, nhiệm vụ chính trị của đơn vị; ngắn gọn, dễ hiểu, dễ thực hiện. Nâng cao tính chiến đấu trong sinh hoạt đảng; tăng cường vai trò lãnh đạo của cấp ủy và phát huy hiệu lực của người chỉ huy; làm việc theo nghị quyết, quy chế, quy định; giảm hội họp, bám sát cơ sở; khắc phục tình trạng nói không đi đôi với làm, làm không đúng chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Năm là, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, gắn với trách nhiệm lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng. Thực hiện tốt phương châm: Giám sát phải mở rộng, kiểm tra phải có trọng tâm, trọng điểm; chú trọng kiểm tra, giám sát tổ chức đảng cấp dưới trực tiếp, cấp ủy viên, cán bộ chủ trì cùng cấp. Bên cạnh kiểm tra, giám sát theo nội dung, kế hoạch đã được xác định, cần coi trọng kiểm tra, giám sát những đảng viên có dấu hiệu vi phạm; phát hiện, ngăn ngừa, xử lý kịp thời các trường hợp vi phạm khuyết điểm, làm trong sạch đội ngũ cán bộ, đảng viên, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của toàn Đảng bộ.

THÀNH TÍCH TIÊU BIỂU

Huân chương Chiến công (hạng Nhì, Ba); Huân chương Bảo vệ Tổ quốc (hạng Nhất, Nhì); 1 Giải thưởng Nhà nước về KHCN; 2 Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ; hàng chục Cờ thưởng thi đua, Bằng khen, Giấy khen, danh hiệu thi đua tiêu biểu xuất sắc của Bộ Quốc phòng, Quân chủng Hải quân.

Hàng trăm lượt tập thể, cá nhân đã được tặng thưởng huân chương, huy chương, giải thưởng về KHCN, danh hiệu đơn vị quyết thắng, chiến sĩ thi đua, bằng khen, giấy khen…

 

Bài viết, video, hình ảnh đóng góp cho chuyên mục vui lòng gửi về bhqdt@baohaiquanvietnam.vn