


Cách mạng Tháng Tám thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh
thay mặt Chính phủ lâm thời trực tiếp soạn thảo Tuyên ngôn Độc lập. Ngày 2/9/1945,
tại quảng trường Ba Đình, trước cuộc mít tinh của hàng chục vạn người gồm đủ
các tầng lớp cả trong và ngoài nước, Người đọc Tuyên ngôn Độc lập, trịnh trọng
tuyên bố với quốc dân đồng bào và toàn thế giới về nền độc lập của nước Việt
Nam Dân chủ cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Mở đầu Tuyên ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viện
dẫn Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ 1776 và Tuyên ngôn Dân quyền và Nhân quyền
của nước Pháp 1789 để khẳng định những quyền cơ bản, chính đáng, bất khả xâm
phạm của con người, không phân biệt màu da, chủng tộc, giới tính. Từ quyền của
con người, Người phát triển, suy rộng ra thành quyền của các dân tộc, trong đó
quyền của mỗi cá nhân không tách rời mà luôn gắn bó, hòa quyện trong quyền của
mỗi quốc gia dân tộc.

Chủ tịch Hồ Chí Minh tố cáo thực dân Pháp đem quân
sang xâm lược và áp đặt ách thống trị, bóc lột tàn bạo nhân dân Việt Nam, chà đạp lên những quyền tự do, bình
đẳng, bác ái, vốn là chân lý mà chính nước Pháp đã từng tuyên bố và theo đuổi.
Người liệt kê tội ác của thực dân Pháp trên cả phương diện kinh tế, chính trị,
văn hóa và xã hội. Đặc biệt, khi phát xít Nhật xâm lược Đông Dương, “mẫu quốc”
Pháp chẳng những không “bảo hộ” mà còn dâng nước ta cho Nhật.

Với
những lập luận chặt chẽ, thuyết phục đó, Người kết luận một thực tế: Khi Nhật
hàng Đồng minh, nhân dân ta nổi dậy giành chính quyền, lập nên nước Việt Nam Dân
chủ cộng hòa và sự thật là nhân dân ta lấy lại nước Việt Nam từ Nhật chứ không
phải Pháp. Bởi thế, Người tuyên bố nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa thoát ly
hẳn quan hệ với thực dân Pháp, xoá bỏ các hiệp ước mà Pháp ký về nước Việt Nam
và mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước ta. Người nhấn mạnh, Việt Nam đã gan
góc chống thực dân Pháp hơn 80 năm và đứng về phía Đồng minh chống phát xít cho
nên xứng đáng được độc lập. Các nước Đồng minh quyết không thể không công nhận
quyền độc lập của Việt Nam.

Tuyên ngôn Độc lập kết thúc bằng tuyên bố hùng hồn: Nước Việt Nam có quyền
hưởng tự do, độc lập và sự thật đã trở thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể
dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải
để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy. Đây chính là quyết tâm sắt đá, là ý chí và
khát vọng của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam, không gì có thể lay chuyển,
khuất phục được.
Tuyên
ngôn Độc lập ngày 2/9/1945 là văn kiện lịch sử,
pháp lý bất hủ, có tầm quan trọng đặc biệt của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, đánh
dấu thời điểm chấm dứt ách đô hộ hơn 80 năm của thực dân Pháp, chấm dứt 5 năm
chiếm đóng của phát xít Nhật và hàng nghìn năm tồn tại của chế độ quân chủ phong
kiến.

Tuyên
ngôn Độc lập mở ra một kỷ nguyên phát triển mới
của dân tộc Việt Nam, đó là độc lập dân tộc và đi lên chủ nghĩa xã hội. Cùng
với bài thơ thần “Nam quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt vang trên dòng sông Như
Nguyệt năm 1077 và “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi bố cáo thiên hạ xa gần năm
1428, Tuyên ngôn Độc lập ngày 2/9/1945
là mốc son trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, làm rạng rỡ nền văn
hiến Việt Nam trải hơn bốn nghìn năm.

Tuyên
ngôn Độc lập kết tinh truyền thống anh
hùng, kiên cường, bất khuất của dân tộc ta; tổng kết lý luận và thực tiễn hơn 30 năm hoạt động cách mạng của Hồ
Chí Minh; thể hiện sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân trong cuộc đấu tranh
vì độc lập, tự do dưới sự lãnh đạo Đảng. Những tư tưởng, quan điểm trong
Tuyên ngôn Độc lập đến nay vẫn
còn nguyên giá trị và tính thời sự, đó là sự thống nhất giữa quyền độc lập dân
tộc với quyền sống của con người, giữa khát vọng sống tự do, độc lập của con
người với tinh thần kiên quyết bảo vệ quyền độc lập, tự do của dân tộc.

Tuyên
ngôn Độc lập có ý nghĩa thời đại sâu sắc khi đã khẳng
định chân lý về quyền con người và quyền của dân tộc vốn là những quyền cơ bản
mang tính phổ quát toàn nhân loại, là lẽ tự nhiên không ai có thể chối bỏ được.
Tuyên ngôn Độc lập chỉ ra một quy
luật tất yếu là ở đâu có áp bức, bóc lột thì ở đó có đấu tranh giành tự do, độc
lập đồng thời khẳng định cách mạng vô sản có thể nổ ra và giành thắng
lợi ở một nước thuộc địa nửa phong kiến nhờ có Đảng Cộng sản lãnh đạo, có lý
luận soi đường và đường lối cách mạng đúng đắn, sáng tạo, tự lực tự cường, kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại… Do vậy Tuyên ngôn Độc lập có sức lan tỏa vô cùng to lớn không chỉ ở trong
nước mà còn thức tỉnh các dân tộc thuộc địa vùng lên đấu tranh chống đế quốc,
thực dân, giành độc lập.

Tuyên
ngôn Độc lập là
áng “thiên cổ hùng văn”, kết hợp hài hòa giữa tầm cao trí tuệ với tư tưởng cao
đẹp, giá trị nhân văn, nhân bản sâu sắc. Lời lẽ giản dị, khúc triết, dễ hiểu mà lập luận chặt chẽ, sắc sảo,
thuyết phục. Ngữ điệu hùng tráng, uyển chuyển mà giàu
lý trí và biểu cảm. Với tầm nhìn
xa trông rộng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cảnh báo âm mưu của thực dân Pháp và khẳng
định quyết tâm cũng như trách nhiệm của nhân dân Việt Nam trong bảo vệ nền tự
do, độc lập đã giành được; cổ vũ tinh thần yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân
tộc; tập hợp, đoàn kết toàn dân thành khối thống nhất, tạo sức mạnh kháng chiến
thắng lợi, kiến quốc thành công.




Tuyên
ngôn Độc lập mãi tỏa sáng trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế hiện nay. Trước
biến động đầy phức tạp, khó lường, khó đoán định của tình hình thế giới, khu
vực hiện nay, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta càng phải thấu triệt tinh
thần độc lập, tự do, tự chủ, tự lực, tự cường của Tuyên
ngôn Độc lập, để xây dựng, phát triển đất nước và quyết tâm bảo vệ vững
chắc Tổ quốc trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.



Nội dung: Kao Dân
Đồ họa: Đại Dương
Chia sẻ
chủ nhật, 31/08/2025 21:03
-820