Nâng cao hiệu quả, hiệu lực công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật Đảng trong Đảng bộ Quân chủng Hải quân

* Chuẩn Đô đốc Đặng Minh Hải, Ủy viên Thường vụ, Phó Chính ủy, Chủ nhiệm UBKT Đảng ủy Quân chủng Hải quân

HQVN -

Quán triệt sâu sắc Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ X, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân chủng lần thứ XII, nhiệm kỳ qua, cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra (UBKT) các cấp trong Đảng bộ Quân chủng Hải quân đã tích cực, chủ động bám sát nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng Đảng, sự chỉ đạo của cấp trên, triển khai toàn diện, đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm, hoàn thành kế hoạch kiểm tra, giám sát nhiệm kỳ và từng năm, tạo chuyển biến tích cực trên các mặt công tác.

Chất lượng, hiệu lực, hiệu quả các cuộc kiểm tra, giám sát được nâng cao; giải quyết kịp thời đơn thư tố cáo, khiếu nại; các trường hợp vi phạm kỷ luật được xử lý nghiêm minh, góp phần quan trọng tăng cường đoàn kết, giữ nghiêm kỷ luật; khẳng định được vị trí, vai trò công tác kiểm tra, giám sát, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.

 Chuẩn Đô đốc Đặng Minh Hải phát biểu tại Hội nghị công tác kiểm tra, giám sát của Vùng 5 Hải quân. Ảnh: CTV

Trong nhiệm kỳ, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp kiểm tra, giám sát 2.700 lượt tổ chức đảng, 43.856 lượt đảng viên (tăng 260 tổ chức đảng và 6.578 lượt đảng viên so với nhiệm kỳ 2010-2015). UBKT các cấp phát hiện, kiểm tra 26 tổ chức đảng, 257 đảng viên có dấu hiệu vi phạm (tăng 2 tổ chức đảng); giám sát chuyên đề 532 lượt tổ chức đảng và 1.244 lượt đảng viên (tăng 47 tổ chức đảng và 84 lượt đảng viên); kiểm tra 438 lượt tổ chức đảng cấp dưới về thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật và thu nộp, quản lý, sử dụng tài chính đảng (tăng 37 tổ chức đảng so với nhiệm kỳ 2010-2015).

Các cuộc kiểm tra, giám sát được tiến hành chặt chẽ, đúng quy trình, bảo đảm tiến độ; kết hợp giữa kiểm tra, giám sát tập thể cấp ủy với kiểm tra, giám sát đảng viên là cấp ủy viên, cán bộ chủ trì đơn vị; gắn kiểm điểm trách nhiệm lãnh đạo của tập thể cấp ủy với trách nhiệm cá nhân được phân công phụ trách; gắn kiểm tra, giám sát đảng viên, tổ chức đảng với quán triệt và thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 Khóa XII, Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị và việc thực hiện các quy định nêu gương, các cuộc vận động, các khâu đột phá. Sau kiểm tra, giám sát đã nhận xét, đánh giá, kết luận rõ ưu điểm, khuyết điểm, nguyên nhân, trách nhiệm của tập thể và cá nhân; các tập thể, cá nhân được kiểm tra, giám sát đều có kế hoạch khắc phục khuyết điểm và phấn đấu tiến bộ.

Việc xem xét thi hành kỷ luật đảng được cấp ủy, UBKT các cấp tiến hành một cách chủ động, kịp thời, kết luận đúng mức độ tính chất, nguyên nhân vi phạm để xử lý hoặc đề nghị tổ chức đảng cấp trên xử lý kỷ luật, bảo đảm đúng phương hướng, phương châm, nguyên tắc, thủ tục và thẩm quyền thi hành kỷ luật. Hầu hết các đảng viên bị thi hành kỷ luật đã thấy rõ khuyết điểm của mình, chấp hành nghiêm quyết định, không khiếu nại; đa số đảng viên sau thời gian bị xử lý đã quyết tâm phấn đấu tiến bộ. Trong nhiệm kỳ, các tổ chức đảng có thẩm quyền đã thi hành kỷ luật 416 cán bộ, đảng viên (bằng 0,31% tổng số đảng viên trong toàn đảng bộ), trong đó có 297 đảng viên là cán bộ và 175 cấp ủy viên các cấp.

 Các đại biểu tham quan một số hình ảnh hoạt động của Vùng 5 Hải quân. Ảnh: Văn Định

Điểm mới trong thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát thời gian qua đó là sự kết hợp đồng bộ giữa công tác kiểm tra và công tác cán bộ, xem xét thi hành kỷ luật nghiêm minh, kịp thời đối với các trường hợp sai phạm, thông báo rộng rãi các trường hợp cán bộ, đảng viên vi phạm phải xử lý kỷ luật để rút kinh nghiệm. Việc thực hiện quy chế phối hợp hoạt động trong công tác kiểm tra, giám sát giữa UBKT với các cơ quan, đơn vị có chuyển biến tích cực, hiệu quả; cấp ủy các cấp đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo công tác kiểm tra, giám sát; coi trọng việc phát huy vai trò của UBKT trong tham mưu giúp cấp ủy, Ban Thường vụ cấp ủy chỉ đạo và thực hiện có hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát.

Tuy nhiên, việc lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật nhiệm kỳ qua còn những hạn chế đó là: Nhận thức về công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng của một số cấp ủy, cán bộ, đảng viên có nội dung chưa chắc; chất lượng, hiệu quả, hiệu lực công tác kiểm tra, giám sát có mặt chưa đáp ứng yêu cầu công tác xây dựng đảng hiện nay. Kiểm tra dấu hiệu vi phạm đối với đảng viên và tổ chức đảng cấp dưới còn là khâu yếu; tình hình chấp hành kỷ luật của đảng viên tuy có chuyển biến nhưng chưa thật vững chắc, còn xảy ra vụ việc vi phạm nghiêm trọng; tình trạng đơn thư tố cáo giấu tên, mạo tên gửi nhiều nơi, nhiều lần, vượt cấp vẫn còn, gây rối bận cho tổ chức.

Một số vấn đề rút ra qua thực hiện công tác kiểm tra, giám sát:

Một là: Thường xuyên coi trọng việc quán triệt nâng cao nhận thức cho cấp ủy, UBKT các cấp về vị trí, vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác kiểm tra, giám sát, đặc biệt là Quy định 30 về thi hành Chương VII, Chương VIII, Điều lệ Đảng, Quy định 86-QĐ/TW ngày 1-6-2017 của Bộ Chính trị về giám sát trong Đảng và các chỉ thị, nghị quyết, quyết định, quy định, hướng dẫn của Trung ương và Quân ủy Trung ương, nhất là những nội dung mới về công tác kiểm tra, giám sát, bảo đảm thống nhất, đồng bộ.

 Hai là: Tiếp tục đổi mới, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng của cấp ủy, tổ chức đảng, UBKT các cấp bảo đảm thiết thực, hiệu quả. Quá trình tiến hành công tác kiểm tra, giám sát phải nắm vững tư tưởng chỉ đạo “Chủ động, chiến đấu, giáo dục, hiệu quả”; triển khai quyết liệt, thường xuyên, toàn diện, đồng bộ, phục vụ nhiệm vụ chính trị, công tác xây dựng đảng. Cải tiến, đổi mới quy trình công tác, phương pháp, kỹ năng kiểm tra, giám sát, kỷ luật theo phương châm khoa học, dân chủ, đồng bộ, thống nhất, khả thi; trong đó tập trung vào các cơ chế biện pháp chủ động phát hiện sớm để phòng ngừa, ngăn chặn khuyết điểm vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên, có chế tài để phòng ngừa, xử lý nghiêm các loại hành vi vi phạm kỷ luật Đảng.

Ba là: UBKT các cấp cần chủ động, tích cực thực hiện nhiệm vụ theo quy định Điều lệ Đảng và nhiệm vụ cấp ủy giao; tăng cường giám sát tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên, trước hết là cấp ủy viên cùng cấp, cán bộ thuộc diện cấp mình quản lý; thường xuyên nắm chắc tình hình cơ sở, phát huy vai trò của các cơ quan chức năng có liên quan, trước hết là cơ quan chính trị các cấp, các tổ chức quần chúng; chủ động phát hiện, kịp thời kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm, khắc phục tình trạng né tránh, ngại kiểm tra. Đối với những UBKT cấp dưới không thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, khi có dấu hiệu vi phạm thì UBKT cấp trên trực tiếp tiến hành kiểm tra và xem xét trách nhiệm của UBKT và người đứng đầu UBKT cấp dưới. Khi cần thiết, UBKT có thể quyết định và tiến hành kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với tổ chức đảng, đảng viên do tổ chức đảng cấp dưới quản lý. Nâng cao hiệu quả phối hợp thực hiện công tác kiểm tra, giám sát của Đảng với công tác thanh tra, điều tra, kiểm sát của các cơ quan chức năng.

Bốn là: Chỉ đạo, xem xét, giải quyết đơn thư tố cáo, khiếu nại các vụ việc kịp thời, đúng quy trình, quy định và thẩm quyền; bảo đảm thấu tình, đạt lý, tạo được sự đồng thuận; chú trọng việc phối hợp với các cơ quan chức năng xem xét, giải quyết dứt điểm ngay từ cơ sở, không để đơn thư tố cáo, khiếu nại vượt cấp và vụ việc kéo dài gây phức tạp tình hình.

Năm là: Thường xuyên kiện toàn tổ chức bộ máy cơ quan UBKT, đội ngũ cán bộ kiểm tra các cấp bảo đảm tương xứng với chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn được giao. Coi trọng việc lựa chọn, bồi dưỡng, luân chuyển, nâng cao bản lĩnh chính trị, năng lực chuyên môn nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức, phương pháp tác phong công tác của đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm tra chuyên trách. Đầu tư, tạo điều kiện về cơ sở vật chất, kỹ thuật, phương tiện làm việc của ủy ban và cơ quan UBKT các cấp.

 

Bài viết, video, hình ảnh đóng góp cho chuyên mục vui lòng gửi về bhqdt@baohaiquanvietnam.vn